CHƯƠNG 4:
Phân tích các Doanh nghiệp Kho vận Cảng biển
A. Tổng quan doanh nghiệp logistics niêm
yết
1. Quy mô các doanh nghiệp niêm yết
Hiện nay, có khoảng 25 doanh nghiệp
niêm yết hoạt động trong lĩnh vực logistics trong tổng số 1,200 doanh nghiệp, đạt tổng giá trị vốn
hóa đạt 19.32 nghìn tỷ đồng, chiếm 2.64% tỷ trọng vốn hóa cả nền kinh tế. Trong
đó, hoạt động logistics bao gồm 3 mảng hoạt động vận tải, khai thác cảng và
dịch vụ logistics lần
lượt chiếm tỷ trọng 29%, 56% và 15%.
Giá trị P/E đại diện cho các doanh nghiệp trong
ngành logistics tính
theo trung bình trọng số vốn hóa và trung vị lần lượt là 8.0x và 7.4x, thuộc mức
thấp so với các quốc gia trong khu vực và thế giới. Chỉ số này phản ánh một sự
bất cân xứng giữa năng lực ngành logistics Việt Nam hiện tại (được đánh giá xếp hạng 48 thế giới
theo World Bank)
và giá trị của các công ty logistics đang niêm yết. Điều xuất phát từ thực tế số lượng
doanh nghiệp niêm yết trong ngành hiện tại đang chiếm một tỷ trọng rất nhỏ và
không đại diện được cho tính chất ngành logistics Việt Nam. Đặc biệt là ngành dịch vụ logistics
các công ty
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đã chiếm đến 80% thị phần (theo thống kê sơ bộ
từ Hiệp hội Logistics Việt Nam) và các doanh nghiệp này có thể cung cấp dịch
vụ bao quát được chuỗi cung ứng, mức giá cả hợp lý do tận dụng lợi thế so sánh
trên toàn cầu.
Do đó, với triển vọng phát triển
chung của ngành, các công ty cung cấp được các gói dịch vụ tối ưu hóa chuỗi
cung ứng, ứng dụng công nghệ cao với quy mô lớn sẽ thu hút được khách hàng lớn
nhanh chóng mở rộng thị trường, tạo động lực cho tăng trưởng doanh thu lợi nhuận.
Khi đó, mức độ đánh giá về giá trị doanh nghiệp sẽ gia tăng, thể hiện qua các
chỉ số P/E, EV/EBITDA sẽ dần tiến dần về mức của thế giới. Các doanh nghiệp có
giá trị vốn hóa lớn trong ngành như GMD, PVT, DVP,
VSC và TMS, trong đó có DVP và VSC chủ yếu hoạt động khai thác cảng, PVT và TMS
lần lượt là hai doanh nghiệp vận tài và dịch vụ giao nhận. GMD là một công ty lớn
trong ngành có có hoạt động kinh bao phủ cả ba mảng khai thác cảng, vậ n tải và
dịch vụ logistics, đồng
thời đưa ra chiến lược dài hạ n trở thành nhà cung cấp 3PL (Third
Party Logistics).
Trong các doanh nghiệp niêm yết,
hoạt động trong ngành khai thác cảng biển, GMD là doanh nghiệp lớn có hệ thống
cảng biển trải dài từ Bắc vào Nam. Trong đó, hai cảng Nam Hải và Nam Hải Đình
Vũ đều hoạt động hiệu quả với tổng sản lượng hàng hóa thông qua năm 2014 đạt
520 nghìn TEU, chiếm 16.7% sản lượng khu vực Hải Phòng. Các doanh nghiệp khai
thác cảng tại thượng lưu sông Câm như DXP, VSC chịu hạn chế luồng sông nên chỉ
tiếp nhận được tàu có tải trọng dưới 10,000 DWT. Hầu hết các doanh nghiệp tại Hải
Phòng đã hoạt động hết công suất như DXP, DVP, VSC, HAH. Trong đó, VSC đã đầu
tư mới cảng biển thông qua liên doanh với VIPCO. DVP và HAH lần lượt chuyển hướng
sang mảng kho bãi - logistics và vận tải biển để tạo động lực tăng trưởng doanh
thu lợi nhuận trong tương lai.
Tại miền Nam, doanh nghiệp niêm yết
khai thác cảng bao gồm CLL, TCL, VGP và PDN. Trong đó, CLL khai thác một cầu bến
trong 8 cầu bến thuộc cụm cảng Cát Lái, sản lượng thông qua hàng năm đạt
400,000 TEU, chiếm 10% sản lượng khu vực Cát Lái. Cảng Đồng Nai (PDN) trước đấy
khai thác hàng rời, nay đã chuyển sang khai thác hàng hóa container
nội địa, thu
gom hàng hóa tại Đồng Nai, Bình Dương đưa đến các cảng Cát Lái, Hiệp Phước.
2.
Tình
hình tài chính
2.1 Nhóm DN khai thác cảng
a. Doanh thu thuần - Lợi nhuận gộp - Lợi
nhuận sau thuế
Trong các doanh nghiệp niêm yết
hoạt động trong mảng khai thác cảng, GMD là doanh nghiệp có doanh thu thuần cao
nhất. Cụ thể doanh thu của riêng mảng khai thác cảng trong năm 2014 đạt 1,101 tỷ
đồng, tăng 48.7% so với cùng kỳ, mức tăng trưởng cao nhất trong các doanh nghiệp
niêm yết khai thác cảng. Do trong năm 2014 GMD đã đưa vào khai thác cảng Nam Hải
Đình Vũ, công suất hoạt động cao gấp đôi so với cảng Nam Hải hiện hữu tại Hải
Phòng.
Các doanh nghiệp khai thác cả ng
khác tại khu vực Hải Phòng như VSC, HAH, DVP
cũng có mức tăng trưởng doanh thu từ 10% - 30%, do chủ động thuê các cầu cả ng
khác trong trường hợp quá tải. DXP là doanh nghiệp niêm yết khai thác cảng duy
nhất có doanh thu sụt giảm so với cùng kỳ do, vị trí cảng nằm sâu bên trong
không thuận lợi cho tàu cập cảng.
CLL và TCL là các công ty con của
Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, hoạt động khu vực cảng Cát Lái, thực hiện vai
trò xếp dỡ tại cầu cảng và bãi container. Mức tăng trưởng doanh thu của hai công ty này tương
đương nhau trong khoảng 20% so với cùng kỳ. PDN cũng đạt mức tăng trưởng doanh
thu cao trên 30%, do công ty đang chuyển hướng mở rộng cầu cảng, và đầu tư mạnh
vào hoạt động marketing cảng biển.
Biên lợi nhuận gộp các doanh nghiệp
khai thác cảng thuộc mức khá cao, trung bình trong khoảng 30% - 40%. Riêng công
ty TCL có biên lợi nhuậ n gộp chỉ khoảng 20% do chủ yếu hoạt động xếp dỡ bên
trong bãi container không
bao gồm cầu cảng. Tỷ trọng chi phí quản lý doanh nghiệp so với doanh thu dao động
trong khoảng 5% - 10%. Trong đó, PDN đang có tỷ lệ cao nhất do đang đẩy mạnh hoạt
động marketing hệ thống cảng biển của công ty, nhằm thu hút hãng tàu.
Trong năm 2014, GMD là công ty có
mức lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính cao nhất trong các
doanh nghiệp niêm yết, tăng trưởng mạnh mẽ 66% so với cùng kỳ do mở rộng khai
thác cảng mới và hệ thống trung tâm phân phối. Đồng thời, trong năm lợi nhuận
sau thuế của GMD tăng mạnh do hạch toán doanh thu tài chính đột biến. Hầu hết
các doanh nghiệp niêm yết khai thác cảng đều có lợi nhuận sau thuế tăng trưởng
so với cùng kỳ, trừ DXP và CLL .
b. Cơ cấu tài sản - Vòng quay tài sản
Phần lớn các doanh nghiệp khai
thác cảng đều có tỷ trọng tài sản dài hạn lớn hơn so vớ i tài sản ngắn hạn do
phải đầu tư lớn vào xây dựng cảng, thiết bị xếp dỡ giá trị cao. Tài sản ngắn hạn
của các doanh nghiệp này chủ yếu là nhiên liệu, tiền chi trả lương nhân viên,
và các khoản phải thu hãng tàu.
GMD vẫn là doanh nghiệp có tổng
tài sản lớn nhất đạt gần 8,000 tỷ đồng do hoạt động trên cả ba mảng khai thác cảng,
vận tải và dịch vụ. Các doanh nghiệp còn lại có tài sản tương đương trong khoảng
1,000 tỷ đồng.
DXP có mức tài sản thấp nhất,
tương ứ ng chiều dài cẩu cảng và kho bãi nhỏ nhất trong ngành khai thác cảng, đồng
thời cảng Đoạn Xá đã khai thác từ lâu đời nên tài sản cố định đã khấu hao hơn
75% nguyên giá. TCL là công ty có mức vòng quay tài sản cao nhất do đặc trưng
hoạt động không khai thác cầu cảng mà hoạt động bên trong bãi container
vớ i chi phí
đầu tư thiết bị thấp hơn so với thiết bị xếp dỡ tại cầu tàu. Tuy nhiên, TCL hoạt
động trên mặt bằng rộng trong Cát Lái nên tạo ra được doanh thu lớn, hiệu quả
khai thác tài sản cao.
c. Mức độ đòn bẩy tài chính của các công
ty trong ngành
Mức độ tương đối vừa phải, phổ
biến trong khoảng từ 1.2 - 1.6 lần. Trong đó, tỷ trọng nợ ngắn hạn tương đối
cao và chủ yếu là các khoản phải trả người bán. Hai công ty GMD và HAH có mức nợ
dài hạn cao hơn lần lượt do vay nợ để tài trợ cho hoạt động xây dựng cảng mới,
trung tâm phân phối và mua tàu vận tải biển. Trong khoản vay dài hạn của GMD có
khoảng 500 tỷ đồng vay USD, công ty HAH cũng hoàn toàn vay dài hạn bằng USD với
nhiều mức lãi suất.
Đây là đặc thù của các doanh nghiệp
trong ngành khai thác cảng do nguồn doanh thu trực tiếp từ các hãng tàu là USD
nên các doanh nghiệp sẽ được vay USD ưu đãi, đồng thờ i cũng là hướng phòng ngừa
rủi ro biến động tỷ giá.
HAH là doanh nghiệp có mức ROE
cao nhất khoảng 35%, tương ứ ng do tỷ suất lợi nhuận sau thuế, vòng quay tài sản
và đòn bẩy đều ở mức cao. Cảng biển của HAH luôn trong tình trạng hoạt động hết
công suất, trong khi mảng tàu vừa đưa vào hoạt động cũng có lãi do đủ nguồn
hàng. Doanh nghiệp có mức ROE cao thứ hai là DVP ở mức 30%, do tỷ suất lợi nhuận
sau thuế và vòng quay tài sản cao khi tài sản cố định đã khấu hao hơn 60%. Ở
chiều ngược lại, tỷ lệ ROE của GMD ở mức thấp 10% so với các doanh nghiệp khác
trong ngành, do nhiều tài sản lớn của GMD vừa mới hoặc chưa đưa vào khai thác
như cảng Nam Hải Đình Vũ, cảng Gemalink, các dự án cao su và bất động sản.
2.2 Các doanh nghiệp điều phối logistics
Trong các doanh nghiệp niêm yết
trong lĩnh vực dịch vụ logistics, GMD và STG hiện là doanh nghiệp sở hữu hệ thống
kho bãi lớn nhất.Trong đó, GMD đang hướng đến mở rộ ng hệ thống kho công nghệ
cao dưới dạng trung tâm phân phối và sở hữu diện tích lớn nhất. STG sở hữu hệ
thống kho hàng với diện tích lớn nhất, tuy nhiên phân bố tả n mác tại quận 4, quận 7, quận 9,... và biến
động do thiếu mặt bằng. Transimex - Sài Gòn (TMS) cung cấp một hệ thống kho đầy
đủ và đang có kế hoạch phát triển hệ thống kho ngoại quan và dịch vụ hậu cần
quy mô lớn đến 100,000 m2 , tăng gấp đối so với diện tích kho bãi hiện tại.
Một số công ty khác như VNL, VNF,
VNT và HMH chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực giao nhận hàng hóa, đại lý vận tải,
cho nên chỉ sở hữu hệ thống kho vừa đủ để phục vụ cho mảng kinh doanh chính và
chưa có kế hoạch theo hướng phát triển cơ sở hạ tầng kho bãi.
a. Tình hình tài chính Doanh thu thuần -
Lợi nhuận gộp - Lợi nhuận sau thuế
Trong mảng dịch vụ logistics, GMD
vẫn là doanh nghiệp có doanh thu cao nhất đạt 1,875 tỷ trong năm 2014, tăng 10%
so với cùng kỳ. Thị trường dịch vụ logistics tại Việt Nam cực kỳ phân mảnh và mức
độ cạnh tranh cao, cho nên mức tăng trưởng doanh thu hàng năm của các doanh
nghiệp bình quân trong khoảng 10%. Các doanh nghiệp như SFI, VNL có mức tăng
trưởng doanh thu cao là do thay đổi cách hạch toán doanh thu. VNF cũng là một
doanh nghiệp có mức tăng trưởng cao trong năm 2014, do phần tăng trưởng từ
doanh thu công ty con hoạt động trong mảng đại lý vé máy bay.
Các doanh nghiệp có biên lợi nhuận
gộp cao như SFI, TMS, HMH, TCO dao động trong khoản 20% - 25%. Các doanh nghiệp
như TMS, HMH, STG có lợi thế tận dụng được từ cơ sở hạ tầng kho bãi, do đó biên
lợi nhuận gộp cao. Công ty SFI mặt khác chuyên khai thác mảng thu gom hàng lẻ với
mức phí cao hơn, thay vì giao nhận hàng container, tuy nhiên tỷ lệ chi phí quản
lý doanh nghiệp trên doanh thu khá cao so với các doanh nghiệp trong ngành. Các
doanh nghiệp TMS, STG, VNL, VNF, VNT có tỷ lệ chi phí quản lý doanh nghiệp trên
doanh thu khá thấp dưới 5%.
Trong các doanh nghiệp hoạt động
trong mảng dịch vụ logistics, GMD có mức lợi nhuận hoạt động cao nhất trong
ngành, do bao gồm cả lợi nhuận hoạt động khai thác cảng, vận tải và logistics.
Doanh nghiệp đứng thứ hai là TMS, thuần túy hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ
logistics, với lợi nhuận sau thuế năm 2014 đạt 138 tỷ đồng, tăng trưởng tăng
42% so với cùng kỳ. HMH trong năm 2014, có mức tỷ suất lợi nhuận sau thuế cao
nhất trong các doanh nghiệp niêm yết do lợi nhuận bất thường từ việc bán các
phương tiệ n vận tải hoạt động không hiệu quả.
b. Cơ cấu tài sản - Vòng quay tài sản -
Cơ cấu nguồn vốn
Trong mả ng dịch vụ hàng hóa, một
số doanh nghiệp chỉ thuần túy làm dịch vụ giao nhận hàng hóa, làm trung gian giữa
chủ hàng và hãng vận tải. Do đó, tài sản cố định của các công ty này khá thấp,
trong khi tạo ra doanh thu cao, do đó vòng quay tài sản ở mức cao 3.0 - 4.0 lần, điển hình là
VNF, STG, PRC. Các doanh nghiệp đầu tư vào hạ tầng kho bãi hoặc phương tiện vận
tải như GMD, TMS, HMH có vòng quay tài sản thấp.
Mức đòn bẩy tài chính của các
doanh nghiệp trong mảng dịch vụ logistics tương đối cao như GMD, STG, SFI, VNL,
VNF, VNT, PRC. Cơ cấu nợ phải trả chủ yếu là nợ phải trả ngắn hạn, cụ thể là phải
trả cước hãng vận tải. GMD và TMS do đầu tư tài sản cố định lớn do đó mức nợ phải
trả dài hạn cao hơn.
Các công ty VNL, VNF, VNT có giá
trị ROE cao nhất trong ngành lần lượt là 30.5%, 22.0% và 24.7%. Các doanh nghiệp
này điển hình là công ty làm dịch vụ giao nhận hàng hóa, đại lý hãng vận tải do
đó vốn đầu tư không cao, vòng quay tài sản lớn.
Các doanh nghiệp có đầu tư nhiều
hơn vào tài sản cố định như TMS, STG, HMH có mức ROE tương đương nhau trong khoảng
18% - 20%. Các doanh nghiệp trong ngành logistics có ROE trung bình là 18.2%,
thấp hơn mức trung bình 21.6% của ngành khai thác cảng.
B. Các doanh nghiệp logistics chưa niêm
yết
1. Doanh nghiệp khai thác cảng Tổng công
ty Tân cảng Sài Gòn (SGNP)
Là công ty khai thác cảng lớn nhất
tại Việt Nam tính theo sản lượng hàng hóa container thông qua hàng năm. Công ty
sở hữu hệ thố ng các cảng lớn nằm tại các vị trí chiến lược, thuận lợi cho lưu
thông hàng hóa như: Cảng Cát Lái, Tân Cảng Hiệp Phước và khu cảng Cái Mép Thị Vải.
Năm 2014, sản lượng hàng hóa container thông qua Tân Cảng Sài Gòn đạt 4,700
nghìn TEU, chiếm 45.9% lượng hàng hóa container thông qua cả nước. Trong giai
đoạn 2003 - 2014, mức tăng trưởng hàng hóa container thông qua bình quân của
công ty đạt 24.27%/năm, cao hơn mức tăng trưởng 19.24%/năm của cả nước.
Định hướng phát triể n khai thác
cảng của Tân Cảng Sài Gòn trong tương lai bao gồm xây dựng hệ thống bãi
container xung quanh để giảm tải cho cảng Cát Lái, dịch chuyển một phần luồng
hàng hóa ra cảng Tân Cảng Hiệp Phước và Cái Mép. Đồng thời, Tân Cảng Sài Gòn
cũng tham gia vào xây dựng dự án cảng biển quốc tế Lạch Huyện cùng với Vinalines.
Ngoài hoạt động kinh doanh chủ yếu
là khai thác cảng, Tân Cảng Sài Gòn dần mở rộng hoạt động sang các mảng khác của
logistics như dịch vụ giao nhận, kho bãi, vận tải bộ và vận tải biển nội địa Bắc
Nam.
Cảng Hải Phòng Là công ty khai
thác cảng lớn nhất tại khu vực phía Bắc theo sản lượng hàng hóa container thông
qua và là công ty con c ủa Vinalines. Năm 2014, tổng sản lượng hàng hóa
container thông qua cảng Hải Phòng đạt 1,002 nghìn TEU, chiếm 32.13% sả n lượng
khu vực miền Bắc. Hoạt động khai thác cảng của Cảng Hải Phòng diễn ra tại ba
khu vực cảng Hoàng Diệu, cảng Chùa Vẽ và cảng Tân Vũ.
Sản lượng hàng hóa container
thông qua bình quân hàng năm dao động quanh mức 995,000 TEU (???) và không tăng
trưởng mạnh do phải điều chuyển nguồn hàng từ cảng Hoàng Diệu ra Chùa Vẽ và Tân
Vũ. Đồng thời, cảng Tân Vũ chỉ mới được đầu tư thiệt bị hiện đại trong năm
2014, đáp ứng được điều kiện của các hãng tàu nước ngoài.
Cảng Sài Gòn là công ty khai thác
cảng, trực thuộc Vinalines lớn thứ hai sau cảng Hải Phòng, tại khu vực phía
Nam. Cảng Sài Gòn điều hàng hệ thống cảng Nhà Rồng Khánh Hội, Tân Thuận tại TP.
Hồ Chí Minh và góp vốn liên doanh tại các cảng SSIT, SP - PSA tại khu vực Cái
Mép Thị Vải. Cảng Sài Gòn là một trong những công ty khai thác cảng lâu đời nhất
và chủ yếu hoạt động tại Nhà Rồng Khánh Hội và Tân Thuận.Các cảng này hiện tại
chủ yếu khai thác hàng rời và luồng sông không thuận tiện đón các tàu container
lớn vào làm hàng. Do đó, sản lượng hàng hóa thông qua không tăng trưởng nhiều
các năm qua.
Theo quy hoạch chi tiết nhóm cảng
biển miền Nam, Cảng Sài Gòn phải thực hiện di dời hoạt động tại cảng Nhà Rồng
Khánh Hội làm hoạt động khai thác gián đoạn. Cảng Sài Gòn hiện đang khẩn trương
đẩy mạnh tiến độ xây dựng cảng Sài Gòn Hiệp Phước nhằm tiếp nhận luồng hàng
chuyển về khi di dời cảng Nhà Rồng Khánh Hội.Dự kiến đến giữa năm 2016, cảng
Sài Gòn Hiệp Phước sẽ chính thức đi vào hoạt động, cùng lúc với cảng Nhà Rồng
Khánh Hội ngừng hoạt động.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét