Chương
I, II: Sơ lược về TPP và những ảnh hưởng cơ bản tới Nền kinh tế
Sự
phát triến và ổn định của thị trường chứng khoán Việt Nam đang trở thành một
trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất trong thời kỳ hội nhập. Trải qua 15
năm phát triến, thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua không ít thăng trầm
trước những tác động trên thị trường tài chính toàn cầu.
Đặc
biệt trong những năm gần đây, Việt Nam đang trên đà hội nhập nên càng trở nên
“nhạy cảm” với những biến động trên thị trường thế giới. Hiệp định Đối tác
Xuyên Thái Bình Dương (TPP) chính thức được ký kết ngày 5/10 đã thổi một luồng
gió mới vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
TPP được xem là một hiệp định của thế kỷ 21
vì phạm vi rộng lớn cũng như mức độ hội nhập sâu rộng của thương mại hàng hóa,
dịch vụ, đầu tư cũng như cả những vấn đề chính sách môi trường, lao động, sở
hữu trí tuệ. TPP hiện bao gồm 12 thành viên là Mỹ, Brnnie,Chile, New Zealand, Singapore,Úc, Malaysia, Peru,
Mexico, Canada, Nhật Bản và Việt Nam. Các nước Hàn Quốc, Colombia, Costa Rica,Indonesia,
Đài Loan, Thái Lan và nhiều nước khác cũng đang có ý định tham gia vào TPP.
Dân số
của 12 quốc gia thành viên TPP là khoảng 800 triệu người, gấp đôi so với thị
trường Liên minh Châu Âu (EU), đóng góp 40% vào tăng trưởng GDP toàn cầu, và
chiếm 1/3 tổng kim ngạch toàn cầu. Do đó,
đây sẽ là một thị trường tiềm năng với tất các các nước thành viên, tạo điều kiện
cho các nước đang phát triển như Việt Nam hòa nhập, phát triển và tăng cường
năng lực cạnh tranh.
Các
thỏa thuận quốc tế trong Hiệp định bao gồm các lĩnh vực: Cạnh tranh, hợp tác và
xây dựng năng lực, cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, thuế, thương mại điện tử,
môi trường, dịch vụ tài chính, chi tiêu công của chính phủ, sở hữu trí tuệ, đầu
tư, lao động, pháp luật, giải quyết tranh chấp, khả năng xâm nhập thị trường
của hàng hóa, nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa, chuẩn vệ sinh hàng hóa, rào cản
kỹ thuật với thương mại, viễn thông, nhập cảnh tạm thời với doanh nhân, dệt may
và quần áo, bồi thường thiệt hại trong thương mại.
Có
thể thấy về phạm vi, TPP mở rộng hơn so với các hiệp định BTA, AFTA, và trong WTO,
về cả thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và
sở hữu trí tuệ. Ngoài ra còn có các vấn đề phi thương mại như mua sắm chính
phủ, môi trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vì vậy, các cam kết trong TPP là rất sâu rộng, toàn diện và sẽ có ảnh hưởng rất
lớn đến các nước thành viên.
Mục
đích chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất
nhập khẩu giữa các nước thành viên. Thoạt nhìn có thế thấy, các quốc gia sẽ
được hưởng lợi khi đưa sản phẩm của mình sang thị trường rộng lớn của 11 quốc
gia thành viên còn lại, với thuế suất thấp hơn hoặc bằng 0%. Tuy nhiên, sự cạnh
tranh sản phẩm giữa các quốc gia cùng những yêu cầu chặt chẽ về quy tắc xuất xứ
hàng hóa, hay những yêu cầu về lao động, sở hữu trí tuệ,... sẽ tạo ra nhiều
thách thức cho nền kinh tế Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam theo đó
cũng sẽ có những cơ hội và thách thức trước ngưỡng cửa hội nhập sau khi Hiệp
định này được ký kết.
1.2
Bản chất của TPP
Được gọi
là hiệp định thương mại tự do, song về bản chất TPP giống như một thỏa
thuận để “quản
lý” các mối quan hệ thương mại và đầu tư của các nước thành viên của các tập
đoàn, doanh nghiệp hùng mạnh nhất trong mỗi nước thành viên. Điều này có thế nhận thấy rõ ràng từ những vấn đề chính trong
các vòng đàm phán.
Chẳng
hạn như trước đó, New Zealand không đồng ý ký hiệp định vì
cách thức quản lý sản phẩm bơ sữa của Canada và Mỹ. Úc không nhất trí với cách
quản lý thương mại về đường của Mỹ và Mexico. Và Mỹ thì cũng không hài lòng về
cách Nhật Bản quản lý thương mại về gạo,.
Thương
mại tự do phát triến mạnh là do sự phân trung (decentralization) hoàn toàn trong chính sách thương mại. Một quốc gia có tự do thương mại là
quốc gia đã triến khai thực hiện tự do thương mại đơn phương, nghĩa là hoàn
toàn đế người tiêu dùng cá nhân hoặc doanh nghiệp quyết định liệu họ có muốn
kinh doanh với nhà cung cấp nước ngoài. Chẳng hạn một thợ may quần áo phải mua
vải, chỉ may, cúc,... từ các nhà cung cấp trong hoặc ngoài nước. Và hầu hết
người đó sẽ chọn phương án kinh tế nhất.
Tuy
nhiên, hiệp định thương mại tự do TPP cũng như các hiệp định khác lại đưa ra
quyết định không phải theo ý của mỗi cá nhân công dân, mà theo ý của những nhà
lập pháp chính phủ và các nhà đàm phán, những người đưa ra quyết định vì lợi
ích của nhà nước và lợi ích được ưa chuộng. Đây là lý do tại sao nông dân tại
Mỹ, New
Zealand hay Úc lại phản đối TPP.
Có
thế lấy ví dụ về thỏa thuận quyền sở hữu trí tuệ trong TPP. Các điều khoản thỏa
thuận của TPP vẫn chưa được công bố chính thức, song theo thông tin từ trang Wikileaks, TPP tăng thời hạn bản quyền và sáng chế. Các loại thuốc sẽ được bảo hộ lâu
hơn nhiều so với thời hạn 20 năm như hiện nay. Thời hạn bảo hộ cho các tác phẩm
sẽ được tăng từ 70 năm kế từ ngày tác giả chết hiện nay lên 95 hoặc 120 năm. Hệ
quả trước mắt có thế thấy là giá thuốc sẽ tăng, người dân khó tiếp cận hơn với
các loại thuốc, cũng như nông sản hay thực phẩm, đe dọa đến an ninh lương thực
toàn cầu.
Với
các điều khoản bản quyền trong TPP, các hành vi copy, lưu
trữ tạm thời các thông tin được bảo hộ cũng sẽ bị coi là vi phạm bản quyền.
Điều này đi ngược với thực tế và cách thức vận hành của công nghệ hiện nay.
Hiện tại để truyền tải và hiển thị nội dung số một cách hiệu quả, các công nghệ
nền đều phải copy
và lưu trữ tạm thời các đoạn nội dung lên thiết bị của
người dùng.
Ví
dụ dễ thấy nhất là công nghệ buffering khi xem video trên Youtube,
máy tính của người dùng sẽ phải lưu 1 đoạn ngắn các đoạn video để quá trình xem có thể liên tục và không bị đứt đoạn. Hay để người dùng
không phải tải lại trang web khi nhấn nút back trên
trình duyệt, thì trình duyệt phải lưu thông tin về những trang web đã
xem qua vào 1 bộ nhớ đệm, để khi nhấn back có thể hiển thị ngay lập
tức, tiết kiệm thời gian cho người dùng. Với cách áp dụng mới này, gần như điều
luật Dùng hợp lý (fair use) sẽ không còn chút tác dụng
nào nữa.
Về
khía cạnh này, người được hưởng lợi nhiều nhất chính là những tập đoàn, những
quốc gia nắm trong tay phần lớn các nội dung bản quyền.
TPP
tối đa hóa lợi ích của các tập đoàn Mỹ, nhưng lại không đứng nhiều về lợi ích
của đa số người dân Mỹ. Với một nước nhỏ như Việt Nam thì dù muốn hay không,
cũng khó tránh khỏi việc sẽ phải chấp nhận đi theo một xu hướng nào đó. Có thể
thấy các thỏa thuận của Mỹ nhằm tạo ra “thương mại quản lý”, là sân chơi của
các doanh nghiệp hùng mạnh của mỗi quốc gia. Trên bất kỳ đấu trường nào cũng
vậy, người mạnh sẽ là người chiến thắng. Coi TPP là hiệp định thương mại tự do,
nhưng liệu có công bằng giữa các quốc gia?
Việt
Nam là quốc gia có nền kinh tế đứng thứ 55 trên thế giới với tổng GDP khoảng
$186 tỷ, đứng thứ 11 về GDP trong 12 nước thành viên. Mức thuế quan trung bình
của nước ta là 9.5%, cao nhất trong số các nước thành viên TPP. Mức độ giới hạn
trao đổi thương mại trong ngành dịch vụ được Ngân hàng thế giới chấm 41.5 điểm (mức điểm 1 là mức độ thoáng nhất và mức điểm 100 được
xem là hoàn toàn ngăn cấm việc trao đổi mậu dịch), quốc gia có sự
quản lý lĩnh vực dịch vụ chặt chẽ thứ 2 trong TPP. Quy định bảo vệ sáng chế của Việt
Nam nằm ở mức 3.43 điểm (trên thang điểm
5). Vì vậy có thể thấy nước ta sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức mới để có
thể đáp ứng được các điều kiện của TPP.
So với 12 quốc gia thành viên TPP, Việt Nam đứng thứ 2 về tỷ trọng xuất khẩu so
với GDP ở mức 86%. Do đó, khi 18,000 dòng thuế được dỡ
bỏ giữa các nước thành viên, quôc gia phụ thuộc xuất khẩu như Việt Nam sẽ được
hưởng lợi. Tuy
nhiên,
cần đánh giá chính xác và thực tế mức độ tác động của TPP lên các ngành xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam.
Các
sản phẩm của Việt Nam sẽ có cơ hội xuất hiện trên thị trường của 11 nước thành
viên TPP với thuế quan rất thấp hoặc thậm chí là bằng 0%. Tuy nhiên, lợi ích
của các ngành sẽ không giống nhau, ví dụ như đối với thủy hải sản, da giày, dệt
may, đồ gỗ, vốn được được hưởng ưu đãi thuế 0% hoặc gần 0% từ các hiệp định tự
do thương mại với một số nước thành viên TPP như Brunei, Singapore, Malaysia, Úc và New Zealand (cả tại Mỹ dù chưa có thỏa thuận tự do hóa nào). Do đó TPP cũng sẽ không
thay đoi đáng ke quan hệ thuế quan của Việt Nam trong các lĩnh vực này.
Những
lợi thế từ thuế quan có thể sẽ bị triệt tiêu nếu vấp phải các điều kiện khác về
tiêu chuẩn chất lượng, quy tắc xuất xứ, hàng rào kỹ thuật, yêu cầu về môi
trường và lao động. Phải nhìn nhận một thực tế khách quan là thuế quan không
phải là rào cản duy nhất khiến hàng xuất khẩu Việt Nam khó thâm nhập thị trường
nước ngoài. Nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng
những yêu cầu trên là ưu tiên hàng đầu.
Ví
dụ nếu hàng hóa Việt Nam không đáp ứng được quy định về hàm lượng xuất xứ nội
khối (tỷ lệ nội địa hóa phải đạt từ 55% tổng giá trị trở lên, doanh nghiệp chỉ
được phép nhập tối ta 45% nguyên vật liệu từ các nước ngoài khối để sản xuất ra
một sản phẩm, kể cả chi phí gia công) thì sẽ không được hưởng ưu đãi thuế quan
và có sự phân biệt đối xử đối với hàng hóa nguồn khác nhau, trong khi đó khâu
xác định rõ nguồn gốc các thành phần cấu tạo nên sản phẩm tại Việt Nam vẫn làm
chưa tốt.
Về
dịch vụ, thực tế ngành dịch vụ của Việt Nam chưa phát triển đủ mạnh để có thể
vươn ra các thị trường nước ngoài (ngoại trừ một số dự án đầu tư về viễn thông
sang Lào, Mozambique,
...). Hơn nữa ngành dịch vụ của nhiều quốc gia hầu hết
đều đã mở cửa khá rộng, nên TPP cũng không đem lại nhiều lợi ích lắm về mặt
này.
Với
thuế nhập khẩu thấp hơn, nguyên vật liệu nhập khẩu đầu vào sẽ rẻ hơn cho các
doanh nghiệp sản xuất, tạo lợi thế về chi phí sản xuất, nâng cao tính cạnh
tranh về giá.
Người
tiêu dùng được hưởng hàng hóa và dịch vụ với chất lượng tốt hơn, nhiều sự lựa
chọn, giá thành cạnh tranh.
2.3
Những thay đổi về luật pháp, cơ chế
TPP
đòi hỏi Việt Nam phải có sự cải cách để đưa Việt Nam thực sự trở thành nền kinh
tế thị trường (trợ cấp, bảo hộ), kèm theo các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường
và người lao động. Đây đều là những cải cách mà Việt Nam nên tiến hành từ lâu,
nếu muốn phát triển bền vững. Do đó TPP là cơ hội và là động lực để Việt Nam
đẩy mạnh những cải cách đó.
2.4
Bất lợi khi tham gia TPP
Tham
gia TPP đồng nghĩa Việt Nam phải mở cửa hơn nữa thị trường trong nước cho các
doanh nghiệp nước ngoài. Điều này đặt các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là những
doanh nghiệp vừa và nhỏ, hay vốn nhạy cảm với biến động (nông dân), vào thế khó
khi phải đương đầu với các doanh nghiệp lớn mạnh từ cả các nước phát triển.
Hàng
hóa trong nước vốn đã phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt sau một loạt các hiệp
định tự do hóa thương mại, mà điển hình là ACFTA với Trung Quốc. Đặc biệt là ngành hàng nông sản đặc biệt nhạy cảm và người
nông dân là nhóm dễ chịu tổn thương trong tiến trình hội nhập. Ví dụ gần đây về
đùi gà Mỹ nhập khẩu giá 20,000/kg, rẻ bằng 1/3 so với giá gà trong nước là hồi chuông cảnh báo cho thấy rất rõ những tác
động tiêu cực TPP và hội nhập.
Ngành
dịch vụ được xem là một bất lợi của Việt Nam khi đứng trước các ông lớn lâu đời
trong ngành trên thế giới (nhất là Mỹ), nên Việt Nam tỏ ra khá dè dặt trong
việc mở cửa khu vực này.
TPP
bao gồm các quy định khá chặt chẽ về môi trường, lao động (tiêu chuẩn ILO) và
ràng buộc về cạnh tranh, phòng vệ thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ thuật,
kiểm dịch động thực vật, ... Việt Nam sẽ gặp phải khó khăn khi phải sửa đổi
pháp luật, xây dựng cơ chế mới, chi phí thực thi tốn kém, ví dụ như thay đổi
công nghệ nuôi trồng, kiểm soát thú ý chặt chẽ trong chăn nuôi, ...
Một
vấn đề khá nhức nhối ở Việt Nam hiện nay là vấn đề sở hữu trí tuệ, mà Mỹ lại tỏ
ra khá cứng rắn về chuyện này. Thắt chặt hơn về bản quyền sẽ gây khó khăn trước
mắt cho doanh nghiệp và cả người tiêu dùng (hàng hóa đắt hơn).
Một
điều nữa khiến nhiều nhà hoạch định chính sách lo lắng, đó là phải mở cửa thị
trường mua sắm công. TPP có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách tài khóa thông
qua chi tiêu công (đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo “việc làm” cho các công ty trong
nước), khi các doanh nghiệp trong nước khó có cửa để thắng được các công ty
nước ngoài trong các buổi đấu thầu lớn. Mặt tích cực cũng có, liên quan đến
minh bạch hóa thị trường này và cải thiện chất lượng mua sắm công của chính
phủ, nhất là khi nhiều dự án của Việt Nam đều trao cho nhà thầu Trung Quốc, mà
chất lượng lại “rất khó nói”.
Tuy
nhiên, TPP sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam cải thiện hệ thống pháp luật, cải cách
hành chính minh bạch hơn, gọn gàng hơn. Lợi ích từ những cam kết này là rất lớn
và lâu dài cho sự phát triển bền vững của Việt Nam.
Nhìn
chung, dù mang đến nhiều thách thức, nhưng không thế phủ nhận rằng TPP là cơ
hội “ngàn năm có một” đế Việt Nam tạo nên tên tuổi và thay đổi hình ảnh, hàng hóa
“Made in
Vietnam” ra thị trường thế giới, là thời cơ đế Việt
Nam có thế dần dần thoát khỏi sự phụ thuộc nguyên vật liệu thô từ thị trường
Trung Quốc, là cơ hội giúp chính phủ minh bạch hơn, hỗ trợ phát triến kinh tế
theo hướng thị trường đúng nghĩa.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét