News
Loading...
Thứ Tư, tháng 4 06, 2016

Chương I, II: Sơ lược về TPP và những ảnh hưởng cơ bản tới Nền kinh tế



Chương I, II: Sơ lược về TPP và những ảnh hưởng cơ bản tới Nền kinh tế


Sự phát triến và ổn định của thị trường chứng khoán Việt Nam đang trở thành một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất trong thời kỳ hội nhập. Trải qua 15 năm phát triến, thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua không ít thăng trầm trước những tác động trên thị trường tài chính toàn cầu.
Đặc biệt trong những năm gần đây, Việt Nam đang trên đà hội nhập nên càng trở nên “nhạy cảm” với những biến động trên thị trường thế giới. Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) chính thức được ký kết ngày 5/10 đã thổi một luồng gió mới vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
TPP được xem là một hiệp định của thế kỷ 21 vì phạm vi rộng lớn cũng như mức độ hội nhập sâu rộng của thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư cũng như cả những vấn đề chính sách môi trường, lao động, sở hữu trí tuệ. TPP hiện bao gồm 12 thành viên là Mỹ, Brnnie,Chile, New Zealand, Singapore,Úc, Malaysia, Peru, Mexico, Canada, Nhật Bản và Việt Nam. Các nước Hàn Quốc, Colombia, Costa Rica,Indonesia, Đài Loan, Thái Lan và nhiều nước khác cũng đang có ý định tham gia vào TPP.
Dân số của 12 quốc gia thành viên TPP là khoảng 800 triệu người, gấp đôi so với thị trường Liên minh Châu Âu (EU), đóng góp 40% vào tăng trưởng GDP toàn cầu, và chiếm 1/3 tổng kim ngạch toàn cầu. Do đó, đây sẽ là một thị trường tiềm năng với tất các các nước thành viên, tạo điều kiện cho các nước đang phát triển như Việt Nam hòa nhập, phát triển và tăng cường năng lực cạnh tranh.
Các thỏa thuận quốc tế trong Hiệp định bao gồm các lĩnh vực: Cạnh tranh, hợp tác và xây dựng năng lực, cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, thuế, thương mại điện tử, môi trường, dịch vụ tài chính, chi tiêu công của chính phủ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, lao động, pháp luật, giải quyết tranh chấp, khả năng xâm nhập thị trường của hàng hóa, nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa, chuẩn vệ sinh hàng hóa, rào cản kỹ thuật với thương mại, viễn thông, nhập cảnh tạm thời với doanh nhân, dệt may và quần áo, bồi thường thiệt hại trong thương mại.
Có thể thấy về phạm vi, TPP mở rộng hơn so với các hiệp định BTA, AFTA, và trong WTO, về cả thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Ngoài ra còn có các vấn đề phi thương mại như mua sắm chính phủ, môi trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, các cam kết trong TPP là rất sâu rộng, toàn diện và sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến các nước thành viên.
Mục đích chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. Thoạt nhìn có thế thấy, các quốc gia sẽ được hưởng lợi khi đưa sản phẩm của mình sang thị trường rộng lớn của 11 quốc gia thành viên còn lại, với thuế suất thấp hơn hoặc bằng 0%. Tuy nhiên, sự cạnh tranh sản phẩm giữa các quốc gia cùng những yêu cầu chặt chẽ về quy tắc xuất xứ hàng hóa, hay những yêu cầu về lao động, sở hữu trí tuệ,... sẽ tạo ra nhiều thách thức cho nền kinh tế Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam theo đó cũng sẽ có những cơ hội và thách thức trước ngưỡng cửa hội nhập sau khi Hiệp định này được ký kết.
1.2   Bản chất của TPP
Được gọi là hiệp định thương mại tự do, song về bản chất TPP giống như một thỏa thuận đ “quản lý” các mối quan hệ thương mại và đầu tư của các nước thành viên của các tập đoàn, doanh nghiệp hùng mạnh nhất trong mỗi nước thành viên. Điều này có thế nhận thấy rõ ràng từ những vấn đề chính trong các vòng đàm phán.
Chẳng hạn như trước đó, New Zealand không đồng ý ký hiệp định vì cách thức quản lý sản phẩm bơ sữa của Canada và Mỹ. Úc không nhất trí với cách quản lý thương mại về đường của Mỹ và Mexico. Và Mỹ thì cũng không hài lòng về cách Nhật Bản quản lý thương mại về gạo,.
Thương mại tự do phát triến mạnh là do sự phân trung (decentralization) hoàn toàn trong chính sách thương mại. Một quốc gia có tự do thương mại là quốc gia đã triến khai thực hiện tự do thương mại đơn phương, nghĩa là hoàn toàn đế người tiêu dùng cá nhân hoặc doanh nghiệp quyết định liệu họ có muốn kinh doanh với nhà cung cấp nước ngoài. Chẳng hạn một thợ may quần áo phải mua vải, chỉ may, cúc,... từ các nhà cung cấp trong hoặc ngoài nước. Và hầu hết người đó sẽ chọn phương án kinh tế nhất.
Tuy nhiên, hiệp định thương mại tự do TPP cũng như các hiệp định khác lại đưa ra quyết định không phải theo ý của mỗi cá nhân công dân, mà theo ý của những nhà lập pháp chính phủ và các nhà đàm phán, những người đưa ra quyết định vì lợi ích của nhà nước và lợi ích được ưa chuộng. Đây là lý do tại sao nông dân tại Mỹ, New Zealand hay Úc lại phản đối TPP.
Có thế lấy ví dụ về thỏa thuận quyền sở hữu trí tuệ trong TPP. Các điều khoản thỏa thuận của TPP vẫn chưa được công bố chính thức, song theo thông tin từ trang Wikileaks, TPP tăng thời hạn bản quyền và sáng chế. Các loại thuốc sẽ được bảo hộ lâu hơn nhiều so với thời hạn 20 năm như hiện nay. Thời hạn bảo hộ cho các tác phẩm sẽ được tăng từ 70 năm kế từ ngày tác giả chết hiện nay lên 95 hoặc 120 năm. Hệ quả trước mắt có thế thấy là giá thuốc sẽ tăng, người dân khó tiếp cận hơn với các loại thuốc, cũng như nông sản hay thực phẩm, đe dọa đến an ninh lương thực toàn cầu.
Với các điều khoản bản quyền trong TPP, các hành vi copy, lưu trữ tạm thời các thông tin được bảo hộ cũng sẽ bị coi là vi phạm bản quyền. Điều này đi ngược với thực tế và cách thức vận hành của công nghệ hiện nay. Hiện tại để truyền tải và hiển thị nội dung số một cách hiệu quả, các công nghệ nền đều phải copy và lưu trữ tạm thời các đoạn nội dung lên thiết bị của người dùng.
Ví dụ dễ thấy nhất là công nghệ buffering khi xem video trên Youtube, máy tính của người dùng sẽ phải lưu 1 đoạn ngắn các đoạn video để quá trình xem có thể liên tục và không bị đứt đoạn. Hay để người dùng không phải tải lại trang web khi nhấn nút back trên trình duyệt, thì trình duyệt phải lưu thông tin về những trang web đã xem qua vào 1 bộ nhớ đệm, để khi nhấn back có thể hiển thị ngay lập tức, tiết kiệm thời gian cho người dùng. Với cách áp dụng mới này, gần như điều luật Dùng hợp lý (fair use) sẽ không còn chút tác dụng nào nữa.
Về khía cạnh này, người được hưởng lợi nhiều nhất chính là những tập đoàn, những quốc gia nắm trong tay phần lớn các nội dung bản quyền.
TPP tối đa hóa lợi ích của các tập đoàn Mỹ, nhưng lại không đứng nhiều về lợi ích của đa số người dân Mỹ. Với một nước nhỏ như Việt Nam thì dù muốn hay không, cũng khó tránh khỏi việc sẽ phải chấp nhận đi theo một xu hướng nào đó. Có thể thấy các thỏa thuận của Mỹ nhằm tạo ra “thương mại quản lý”, là sân chơi của các doanh nghiệp hùng mạnh của mỗi quốc gia. Trên bất kỳ đấu trường nào cũng vậy, người mạnh sẽ là người chiến thắng. Coi TPP là hiệp định thương mại tự do, nhưng liệu có công bằng giữa các quốc gia?
Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế đứng thứ 55 trên thế giới với tổng GDP khoảng $186 tỷ, đứng thứ 11 về GDP trong 12 nước thành viên. Mức thuế quan trung bình của nước ta là 9.5%, cao nhất trong số các nước thành viên TPP. Mức độ giới hạn trao đổi thương mại trong ngành dịch vụ được Ngân hàng thế giới chấm 41.5 điểm (mức điểm 1 là mức độ thoáng nhất và mức điểm 100 được xem là hoàn toàn ngăn cấm việc trao đổi mậu dịch), quốc gia có sự quản lý lĩnh vực dịch vụ chặt chẽ thứ 2 trong TPP. Quy định bảo vệ sáng chế của Việt Nam nằm ở mức 3.43 điểm (trên thang điểm 5). Vì vậy có thể thấy nước ta sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức mới để có thể đáp ứng được các điều kiện của TPP.
Theo thống kê của Bộ tài chính, trong 10 tháng đầu năm 2014, Việt Nam nhập khẩu từ các nước trong TPP chiếm 23% tổng kim ngạch nhập khẩu, xuất khẩu chiếm 39%, gần 32% vôn FDI của Việt Nam đến từ các nước thành viên TPP. Do đó TPP sẽ có tác đông đáng kể đến hoạt đông thương mại nôi khôi.
So với 12 quốc gia thành viên TPP, Việt Nam đứng thứ 2 về tỷ trọng xuất khẩu so với GDP ở mức 86%. Do đó, khi 18,000 dòng thuế được dỡ bỏ giữa các nước thành viên, quôc gia phụ thuộc xuất khẩu như Việt Nam sẽ được hưởng lợi. Tuy
nhiên, cần đánh giá chính xác và thực tế mức độ tác động của TPP lên các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
2.1 Về thương mại hàng hóa, dịch vụ
Các sản phẩm của Việt Nam sẽ có cơ hội xuất hiện trên thị trường của 11 nước thành viên TPP với thuế quan rất thấp hoặc thậm chí là bằng 0%. Tuy nhiên, lợi ích của các ngành sẽ không giống nhau, ví dụ như đối với thủy hải sản, da giày, dệt may, đồ gỗ, vốn được được hưởng ưu đãi thuế 0% hoặc gần 0% từ các hiệp định tự do thương mại với một số nước thành viên TPP như Brunei, Singapore, Malaysia, Úc và New Zealand (cả tại Mỹ dù chưa có thỏa thuận tự do hóa nào). Do đó TPP cũng sẽ không thay đoi đáng ke quan hệ thuế quan của Việt Nam trong các lĩnh vực này.
Những lợi thế từ thuế quan có thể sẽ bị triệt tiêu nếu vấp phải các điều kiện khác về tiêu chuẩn chất lượng, quy tắc xuất xứ, hàng rào kỹ thuật, yêu cầu về môi trường và lao động. Phải nhìn nhận một thực tế khách quan là thuế quan không phải là rào cản duy nhất khiến hàng xuất khẩu Việt Nam khó thâm nhập thị trường nước ngoài. Nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng những yêu cầu trên là ưu tiên hàng đầu.
Ví dụ nếu hàng hóa Việt Nam không đáp ứng được quy định về hàm lượng xuất xứ nội khối (tỷ lệ nội địa hóa phải đạt từ 55% tổng giá trị trở lên, doanh nghiệp chỉ được phép nhập tối ta 45% nguyên vật liệu từ các nước ngoài khối để sản xuất ra một sản phẩm, kể cả chi phí gia công) thì sẽ không được hưởng ưu đãi thuế quan và có sự phân biệt đối xử đối với hàng hóa nguồn khác nhau, trong khi đó khâu xác định rõ nguồn gốc các thành phần cấu tạo nên sản phẩm tại Việt Nam vẫn làm chưa tốt.
Về dịch vụ, thực tế ngành dịch vụ của Việt Nam chưa phát triển đủ mạnh để có thể vươn ra các thị trường nước ngoài (ngoại trừ một số dự án đầu tư về viễn thông sang Lào, Mozambique, ...). Hơn nữa ngành dịch vụ của nhiều quốc gia hầu hết đều đã mở cửa khá rộng, nên TPP cũng không đem lại nhiều lợi ích lắm về mặt này.
Với thuế nhập khẩu thấp hơn, nguyên vật liệu nhập khẩu đầu vào sẽ rẻ hơn cho các doanh nghiệp sản xuất, tạo lợi thế về chi phí sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh về giá.
Người tiêu dùng được hưởng hàng hóa và dịch vụ với chất lượng tốt hơn, nhiều sự lựa chọn, giá thành cạnh tranh.
2.3   Những thay đổi về luật pháp, cơ chế
TPP đòi hỏi Việt Nam phải có sự cải cách để đưa Việt Nam thực sự trở thành nền kinh tế thị trường (trợ cấp, bảo hộ), kèm theo các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường và người lao động. Đây đều là những cải cách mà Việt Nam nên tiến hành từ lâu, nếu muốn phát triển bền vững. Do đó TPP là cơ hội và là động lực để Việt Nam đẩy mạnh những cải cách đó.
2.4   Bất lợi khi tham gia TPP
Tham gia TPP đồng nghĩa Việt Nam phải mở cửa hơn nữa thị trường trong nước cho các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này đặt các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, hay vốn nhạy cảm với biến động (nông dân), vào thế khó khi phải đương đầu với các doanh nghiệp lớn mạnh từ cả các nước phát triển.
Hàng hóa trong nước vốn đã phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt sau một loạt các hiệp định tự do hóa thương mại, mà điển hình ACFTA với Trung Quốc. Đặc biệt là ngành hàng nông sản đặc biệt nhạy cảm và người nông dân là nhóm dễ chịu tổn thương trong tiến trình hội nhập. Ví dụ gần đây về đùi gà Mỹ nhập khẩu giá 20,000/kg, rẻ bằng 1/3 so với giá gà trong nước là hồi chuông cảnh báo cho thấy rất rõ những tác động tiêu cực TPP và hội nhập.
Ngành dịch vụ được xem là một bất lợi của Việt Nam khi đứng trước các ông lớn lâu đời trong ngành trên thế giới (nhất là Mỹ), nên Việt Nam tỏ ra khá dè dặt trong việc mở cửa khu vực này.
TPP bao gồm các quy định khá chặt chẽ về môi trường, lao động (tiêu chuẩn ILO) và ràng buộc về cạnh tranh, phòng vệ thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ thuật, kiểm dịch động thực vật, ... Việt Nam sẽ gặp phải khó khăn khi phải sửa đổi pháp luật, xây dựng cơ chế mới, chi phí thực thi tốn kém, ví dụ như thay đổi công nghệ nuôi trồng, kiểm soát thú ý chặt chẽ trong chăn nuôi, ...
Một vấn đề khá nhức nhối ở Việt Nam hiện nay là vấn đề sở hữu trí tuệ, mà Mỹ lại tỏ ra khá cứng rắn về chuyện này. Thắt chặt hơn về bản quyền sẽ gây khó khăn trước mắt cho doanh nghiệp và cả người tiêu dùng (hàng hóa đắt hơn).
Một điều nữa khiến nhiều nhà hoạch định chính sách lo lắng, đó là phải mở cửa thị trường mua sắm công. TPP có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách tài khóa thông qua chi tiêu công (đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo “việc làm” cho các công ty trong nước), khi các doanh nghiệp trong nước khó có cửa để thắng được các công ty nước ngoài trong các buổi đấu thầu lớn. Mặt tích cực cũng có, liên quan đến minh bạch hóa thị trường này và cải thiện chất lượng mua sắm công của chính phủ, nhất là khi nhiều dự án của Việt Nam đều trao cho nhà thầu Trung Quốc, mà chất lượng lại “rất khó nói”.
Tuy nhiên, TPP sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam cải thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính minh bạch hơn, gọn gàng hơn. Lợi ích từ những cam kết này là rất lớn và lâu dài cho sự phát triển bền vững của Việt Nam.
Nhìn chung, dù mang đến nhiều thách thức, nhưng không thế phủ nhận rằng TPP là cơ hội “ngàn năm có một” đế Việt Nam tạo nên tên tuổi và thay đổi hình ảnh, hàng hóa “Made in Vietnam” ra thị trường thế giới, là thời cơ đế Việt Nam có thế dần dần thoát khỏi sự phụ thuộc nguyên vật liệu thô từ thị trường Trung Quốc, là cơ hội giúp chính phủ minh bạch hơn, hỗ trợ phát triến kinh tế theo hướng thị trường đúng nghĩa.


Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.

0 nhận xét :

Đăng nhận xét