News
Loading...
Thứ Tư, tháng 2 24, 2016

Báo cáo phân tích STK



STK – Công ty cổ phần Sợi Thế Kỷ

KQKD 2015 chưa kiểm toán của STK thấp hơn nhiều so với kế hoạch.
GHI NHẬN CHÍNH – Doanh thu 2015 thấp hơn kỳ vọng do sản lượng hàng bán giảm. Nhu cầu trong Q4 giảm mạnh do nhiều nguyên nhân. Mặc dù công suất  mới đã đi vào hoạt động trong tháng 10. Tỷ suất lợi nhuận gộp được cải thiện nhờ giá đầu vào giảm mạnh hơn giá bán bình quân đầu ra. Tuy nhiên, lỗ tỷ giá tăng và chi phí quản lý và bán hàng tăng đã bù trừ hết. Và do đó LNST giảm. Mặc dù triển vọng năm 2016 có vẻ không lạc quan như chúng tôi dự báo trước đó, chúng tôi vẫn dự báo doanh thu sẽ tăng trưởng 40,3% chủ yếu nhờ phục hồi của sản lượng hàng bán. Và dự báo LNST tăng trưởng 23,5% với khấu hao và chi phí lãi vay tăng.
Sự sụt giảm của Q4 có thể kéo dài sang đầu năm nay. Do đó, chúng tôi không nhận thấy bất kỳ yếu tố thúc đẩy giá cổ phiếu trong ngắn hạn nào. Dù vậy, chúng tôi ưa thích công ty với hoạt động kinh doanh đang mở rộng, nguồn khách hàng  quốc tế uy tín và kinh nghiệm quản lý. Và chúng tôi cũng nhận thấy doanh nghiêp là một đối tượng hưởng lợi chính của TPP và các hiệp định thương mại song phương khác.
Cho năm 2015, doanh thu thuần của STK giảm 29% và LNST giảm 32,3% so với năm 2014 – CTCP Sợi Thế Kỷ (Mã cổ phiếu: STK – HOSE) công bố KQKD 2015 chưa kiếm toán với doanh thu thuần là 1.035 tỷ đồng (giảm 29% so với năm 2014) và LNST là 71,8 tỷ đồng (giảm 32,3% so với năm 2014). Trong Q4, doanh thu thuần chỉ là 110 tỷ đồng (giảm 69,7% so với cùng kỳ) trong khi đó LNST theo báo cáo chỉ là 10 tỷ đồng (giảm 58,4% so với cùng kỳ)
Với kết quả này, công ty đã hoàn thành lần lượt 61,1% kế hoạch doanh thu và 61,9% kế hoạch lợi nhuận cả năm. Thấp hơn nhiều so với kế hoạch. Trước đó, cho năm 2015 STK đã đặt mục tiêu doanh thu thuần là 1.695 tỷ đồng (tăng trưởng 16,3%) và LNST là 116 tỷ đồng (tăng trưởng 9%). Kết quả chưa kiểm toán theo thông báo cũng thấp hơn so với dự báo của HSC cho  năm 2015 với doanh thu thuần là 1.379,5 tỷ đồng (giảm 5,4% so với  năm 2014) và LNST là 105,2 tỷ đồng (giảm 0,8% so với năm 2014)
Sản lượng tiêu thụ năm 2015 giảm 18,7% so với năm 2014 – Sản lượng tiêu thụ chỉ đạt 26.885 tấn (giảm 18,7% so với năm 2014). Như vậy, STK cũng chỉ hoàn thành 65,7% kế hoạch sản lương hàng bán của công ty, là 40.939 tấn (tăng trưởng 23,9%) và chỉ bằng 78,2% dự báo của HSC về sản lượng tiêu thụ năm 2015 là 34.385 tấn (tăng trưởng 4%). Thực tế, sản lượng hàng bán trong 9 tháng đầu năm 2015 đã giảm 4,6% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, trái với kỳ vọng của chúng tôi rằng hoạt động bán hàng sẽ tăng trở lại trong Q4 với công suất mới đi vào hoạt động, lượng tiêu thụ Q4 thực tế đã giảm rất mạnh 59,3% so với cùng kỳ chỉ đạt 3.446 tấn. Theo sản phẩm, sản lượng hàng bán cả năm của sợi DTY là 23.854 tấn (giảm 18,5% so với năm 2014) và của sợi FDY là 3.030 tấn (giảm 22,2% so với  năm 2014)
Chúng tôi nhận thấy một số yếu tố tác động giảm sản lương hàng bán trong năm ngoái;
(1)  Bắt đầu từ Q3 năm  ngoái, cầu thế giới đối với sợi filament thậm chí giảm hơn nữa do các công ty nhập khẩu trì hoãn các đơn hàng mới do những lo ngại về sự sụt giảm liên tục của giá nguyên liệu đầu vào
(2) Tình trạng dư cung tại Trung Quốc cũng là một nguyên nhân. Để thanh lý tồn kho, các công ty sợi của Trung Quốc đã giảm mạnh giá bán trên cả thị trường Việt Nam và quốc tế
(3) Nhu cầu từ thị trường Thổ Nhĩ kỳ, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của STK giảm. Trong tháng 5/2015, Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hàng thực hiện điều tra chống bán phá giá đối với các sản phẩm sợi DTY từ Việt Nam. Do đó, khách hàng trên thị trường này đã giảm nhập khẩu sợi từ Việt Nam trong khi chờ kết quả điều tra cuối cùng cũng như các động thái sau đó của Chính phủ. Lý do là để tránh bị truy thu thuế chống phá giá (nếu có).
(4) Và cuối cùng là những thay đổi trong cơ cấu sản phẩm với tỷ trọng các sản phẩm nhẹ hơn tăng với quy trình sản xuất phức tạp hơn.
Giá bán bình quân giảm 12,7% so với cùng kỳ – còn 38.514đ/kg (hay 1,76USD/kg). Do giá nguyên vật liệu đầu vào giảm.
Tỷ suất lợi nhuận gộp tăng lên 18,1% (từ mức 14,6%  năm 2014) nhờ giá đầu vào giảm mạnh hơn giá bán bình quân – Trong năm ngoái, chi phí nguyên liệu đầu vào giảm 42,1% so  giá chíp PET, đầu vào chính, được nhập khẩu với giá 20.508đ/kg (giảm 22,3% so với năm 2014) hay chỉ 0,91USD/kg. Do đó, chênh lệch giá hay chênh lệch giữa giá bán bình quân sản phẩm cuối cùng và giá mua nguyên liệu đầu vào tăng lên 18.005đ/kg (tăng trưởng 1%) hay 0,81USD/kg. Theo đó, tỷ suất lợi nhuận gộp cải thiện đáng kể, từ 14,6% năm 2014 lên 18,1% năm 2015.
Dù vậy, lơi nhuận gộp và EBIT lần lượt chỉ là 187 tỷ đồng (giảm 12,2% so với năm 2014) và 125 tỷ đồng (giảm 14,5% so với năm 2014) chủ yếu do sản lượng tiêu thụ giảm mạnh như đề cập trên đây.
Chi phí quản lý và bán hàng cũng tăng – Tỷ lệ chi phí quản lý và bán hàng trong doanh thu thuần cũng tăng lên 6% so với mức 4,6% trong năm 2014 do các chi phí hoạt động khác tăng nhanh hơn (không bao gồm chi phí nguyên liệu thô.
Lỗ tài chính thuần tăng do lỗ tỷ giá chưa thực hiện từ các khoản vay bằng USD. Mặc dù phần lớn chi phí lãi vay vẫn được vốn hóa – Đến thời điểm cuối  năm 2015, tổng dư nợ (cả nợ ngắn hạn và dài hạn, tất cả đều vay bằng USD) theo báo cáo là 672 tỷ đồng hay 29,9 triệu USD. Theo đó, STK báo cáo lỗ thuần tỷ giá 35 tỷ đồng (tăng 878% so với năm 2014) do tiền đồng mất giá 5,3% so với USD trong  năm ngoái. Mặc dù chi phí lãi vay giảm còn 5,1 tỷ đồng (giảm 32,4% so với năm 2014) do STK đã hoàn trả một số khoản vay trước hạn. Và cũng chủ yếu là nhờ chi phí lãi vay liên quan đến Nhà máy Tràng Bảng – Giai đoạn 3 theo ước tính của chúng tôi là khoảng 12 tỷ đồng vẫn được vốn hóa vào tài sản cố định theo quy định  hiện hành. Từ  năm nay, STK giả định sẽ phải ghi nhận hoàn bộ chi phí lãi vay trên Báo cáo Kết quả kinh doanh.
Theo đó, LNTT là 87 tỷ đồng (giảm 36,2% so với năm 2014). Trong khi đó LNST giảm còn 72 tỷ đồng (giảm 32,3% so với năm 2014)
P/E lịch sử khá cao, là 19,1 lần – Theo đó, với giá cổ phiếu đóng cửa hôm nay là 29.500đ/cp, EPS 2015 là 1.544đ, theo đó P/E lịch sử là 19,1 lần.
Triển vọng cho năm nay 2016 khả  quan hơn nhờ một số yếu tố thuận lợi;
(1) Biểu thuế nhâp khẩu mới tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước – dự báo nhu cầu từ khách hàng trong nước sẽ tăng trở lại nhờ việc ấn định biểu thuế nhập khẩu mới đối với các sản phẩm sợi từ Trung Quốc. Sợi từ Trung Quốc chiếm 60 -70% kim ngạch nhập khẩu sợi filament vào Việt Nam. Và từ năm  nay, theo quy định mới, sợi filament hiện sẽ chịu mức thuế suất 3% tăng từ mức 0% trước đó. Theo đó, tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp sản xuất sợi trong nước bao gồm STK.
(2) Lượng vốn FDI sắp tới từ những khách hàng tiềm năng sẽ giúp thúc đẩy thị trường trong nước – Nhu cầu từ khách hàng trong nước tăng nhờ vốn đầu tư FDI mới vào Việt Nam gần đây. Trong năm 2014, Việt Nam có khoảng 20 dự án FDI mới trong ngành dệt may (tập trung chủ yếu vào phân khúc vải và may mặc hơn là sợi). Theo đó, nhiều khả năng cầu đối với sợi sẽ tăng khi các nhà máy này bắt đầu hoạt động trong  năm nay.
(3) Mở rộng xuất khẩu sang thị trường mới là Hàn Quốc khi FTA với Việt Nam có hiệu lực – Hiêp định thương mại song phương Hàn Quốc – Việt Nam có hiệu lực từ tháng 12 năm ngoái. Theo đó, thuế nhập khẩu  đối với sợi filament từ Việt Nam sang Hàn Quốc giảm về 0% từ mức 8% bình quân trước đó. STK dự kiến sẽ tận dụng lợi thế này bằng cách tăng xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc.
(4) Các sản phẩm mới sẽ tạo cầu mới – Hơn nữa, công ty sẽ giới thiệu các sản phẩm mới phức tạp và chuyên biệt với giá trị gia tăng lớn hơn (như sợ tái chế, sợi CD (sợi nhuộm bằng phương pháp cation), sợi khô nhanh), theo đó công ty có thể tăng mức chênh lệch giá. Do STK càng tập trung phát triển các sản phẩm với nhiều giá trị gia tăng hơn và không còn phụ thuộc vào diễn biến giá đầu vào nhiều, khi đó tỷ suất lợi nhuận sẽ càng cải thiện.
Trong 2016 STK đặt kế hoạch tăng trưởng doanh thu là 80% và tăng trưởng LNST là 82% – cho 2016, STK đặt kế hoạch doanh thu là 1,86 nghìn tỷ đồng (tăng trưởng 80%) và LNST là 130,9 tỷ đồng (tăng trưởng 82%). Những giả định chính đằng sau kế hoạch trên là;
(1) Sản lượng tăng 90,6% và đạt 51.256 tấn với giả định Nhà máy Trảng Bàng – Giai đoạn 3 sẽ hoạt động hết công suất trong năm 2016.
(2) Giá bán bình quân giảm 7,54%.
(3) Giá hạt PET chip giảm 12%; chênh lệch giá đầu ra và đầu vào là 2%.
(4) Lãi suất tăng thêm 1% và giả định tỷ giá tăng 4%.
(5) Thuế suất thuế TNDN là 9,12% nhờ được ưu đãi thuế từ Nhà máy Trảng Bàng – Giai đoạn 1,2,3.
Mặc dù vậy kế hoạch mới đề ra thấp hơn kế hoạch ban đầu là 5,9% đối với doanh thu (kế hoạch ban đầu là 1,97 nghìn tỷ đồng) và 18,2% so với LNST (kế hoạch ban đầu là 160 tỷ đồng) thì hiện theo chúng tôi kế hoạch đề ra vẫn hơn tham vọng. Có khả năng STK đạt được kế hoạch kinh doanh 2016 với điều kiện các yếu tố ngoại quan phải có sự cải thiện rõ rệt. Với hiện tại nhu cầu sợi trong Q4 yếu như đề cập trên đây thì chúng tôi đưa ra dự báo thận trọng hơn nhiều so với kế hoạch của công ty.
Cho 2016, HSC dự báo doanh thu tăng trưởng 40,3% còn LNST tăng trưởng 23,5% – Chúng tôi dự báo doanh thu thuần đạt 1,45 nghìn tỷ đồng (tăng trưởng 40,3% cùng kỳ và thấp hơn 22% so với kế hoạch của STK) và LNST đạt 88,7 tỷ đồng (tăng trưởng 23,5% cùng kỳ và thấp hơn 32,2% so với kế hoạch của công ty). Dựa báo của chúng tôi dựa trên giả định sau;
(1) Sản lượng đạt 38.355 tấn (tăng trưởng 42,7% và thấp hơn 25,2% so với kế hoạch của công ty). Giả định STK sẽ hoạt động với khoảng 80% công suất thiết kế là 52.000 tấn/ngày (số ngày hoạt động bình quân trong năm là 340 ngày; còn lại 25 ngày là những ngày bảo dưỡng hoặc mất điện).
(2) Giá bán bình quân (cả sợi DTY và FDY) giảm nhẹ xuống còn 37.817đ/kg (giảm 1,8%).
(3) Giá hạt PET chip cũng giảm tiếp xuống còn 18.021đ/kg (giảm 4,8%). Chênh lệch giữa giá bán sợi và giá hạt PET chip tăng nhẹ lên 19.950đ/kg (tăng 1,8%). Giả định ở đây là giá bán thành phẩm và giá đầu vào sẽ giữ nguyên như ở thời điểm cuối 2015 và chỉ biến động theo biến động của tỷ giá.
(4) Chi phí khấu hao tăng 65% lên 139 tỷ đồng do có nhà máy mới và chi phí bán hàng & quản lý sẽ bằng 5% doanh thu (năm 2015 là 6%).
(6) Lãi suất bình quân là 3%. Tỷ giá sẽ tăng 5%.
(7) Thuế suất thuế TNDN bình quân là 13,8%.
Chúng tôi cũng giả định tỷ suất lợi nhuận gộp sẽ giảm xuống 16,4% năm 2016 – giảm từ 18,1% năm ngoái. Như giả định trên đây, chi phí khấu hao sẽ tăng 65%. Trong khi đó chúng tôi ước tính chi phí hoạt động (bên cạnh chi phí khấu hao và chi phí hạt pet chip) sẽ tăng khoảng 3-5%.
Tỷ lệ chi phí bán hàng & quản lý trên doanh thu giảm trở lại – chúng tôi ước tính tỷ lệ chi phí bán hàng & quản lý trên doanh thu giảm nhẹ xuống còn 5% so với mức 6% của năm ngoái.
Lỗi tài chính thuần tăng do chi phí lãi vay tăng – chúng tôi dự báo lỗ tài chính thuần năm 2016 sẽ là 63 tỷ đồng (tăng 62,7%) do công ty tiếp tục lỗ tỷ giá và chi phí lãi vay tăng. Chúng tôi dự báo chi phí lãi vay sẽ tăng 398% lên 25 tỷ đồng do công ty tăng vay nợ và chi phí lãi vay không còn được vốn hóa một phần như trong năm 2015. Chúng tôi ước tính lỗ tỷ giá là 37,7 tỷ đồng (tăng 7,2%).
Dựa báo trên dựa trên giả định là tại thời điểm cuối 2016, dư nợ vay bằng đồng USD sẽ là 34 triệu USD (tăng 18,6%); tương đương 820,4 tỷ đồng (tăng 24,5%) với giả định Giai đoạn 4 được triển khai với cơ cấu vốn là 70% vay nợ và 30% vốn tự có.
Với LNST tăng trưởng 23,5% thì P/E dự phóng đạt 15,5 lần – HSC dự báo LNST sẽ đạt 88,7 tỷ đồng (tăng trưởng 23,5%). Dựa trên dự báo này, EPS dự phóng 2016 đạt 1.906đ; tương đương P/E dự phóng là 15,5 lần. Dự báo của chúng tôi được đưa trên quan điểm thận trọng nên kết quả thực hiện có thể cao hơn dự báo nếu nhu cầu phục hồi nhanh hơn kỳ vọng. Và/hoặc giá bán phục hồi nhanh hơn giá đầu vào.
Nhà máy Trảng Bàng Giai đoạn 4 sẽ đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch – Nhà máy Trảng Bàng Giai đoạn 4 (TB4) sẽ đi vào hoạt động từ Q1/2017. Nhà máy mới có chi phí đầu tư là 282 tỷ đồng (12,5 triệu USD). Giai đoạn 4 sẽ nâng thêm công suất là 6.000 POY/năm; tăng 13,5%; 8.000 tấn gồm DTY và FDY/năm (4.000 tấn DTY/năm và 4.000 tấn FDT/năm), tăng 15,4% so với công suất hiện nay của STK.
Tiếp tục duy trì đánh giá Nắm giữ – Chúng tôi ưa chuộng cổ phiếu STK vì công ty đang mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh; có nguồn khách là các khách hàng quốc tế uy tín; hoạt động được quản trị tốt và có đội ngũ lãnh đạo giàu kinh nghiệm. Trên thực tế STK được coi là hưởng lợi chính từ Hiệp định TPP (sẽ được ký trong năm sau). Phân khúc của STK có tiềm năng tăng trưởng cao hơn bình quân toàn ngành do các thị trường may mặc đang giảm sử dụng bông. Hiện không có nhiều doanh nghiệp may mặc niêm yết có hoạt động tốt và còn room dành cho NĐTNN, thì STK có thể coi là lựa chọn đầu tư tốt cho những nhà đầu tư dài hạn. Tuy nhiên định giá là không hề rẻ và KQKD có thể sẽ tiếp tục không khả quan như trong Q4. Theo đó chúng tôi thấy giá cổ phiếu không có động lực tăng ngắn hạn. Tiếp tục duy trì đánh giá Nắm giữ.
Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.

0 nhận xét :

Đăng nhận xét