ĐÁNH
GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DỰ THẢO SỬA ĐỔI THÔNG TƯ 36
Dự
thảo sửa đổi thông tư 36 tiếp tục định hướng giảm sự phụ thuộc của thị trường vốn
vào hệ thống ngân hàng. Các thay đổi tạo ra ưu đãi lớn cho nhóm 3 ngân hàng
nhưng cũng gây ra nhiều thách thức cho nhóm ngành Xây dựng, Bất động sản.
Tóm tắt các nhận định chính
Dự thảo sửa đổi Thông tư 36 tiếp tục cho
thấy quan điểm kiên định của cơ quan quản lý nhà nước trong việc dần giảm bớt sự
phụ thuộc của thị trường vốn (Thị trường cổ phiếu, Thị trường Trái phiếu) vào
thị trường tiền tệ (Hệ thống ngân hàng). Điều
này có nghĩa là, dòng vốn từ hệ thống ngân hàng đổ vào thị trường chứng khoán
(TTCK) sẽ tiếp tục bị kiểm soát chặt chẽ. Các thay đổi lớn trong dự thảo
bao gồm: (1) Giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn; (2) Tăng cầu
cho Trái phiếu Chính phủ từ phía chi nhánh ngân hàng nước ngoài; (3) Tạo cơ chế
ưu đãi cho các ngân hàng thương mại nhà nước đã tham gia vào quá trình tái cơ cấu
thời gian qua; (4) Điều tiết tín dụng vào lĩnh vực Bất động sản.
Hạ
tỷ lệ vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn
sẽ giảm thiểu rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Quyết định này sẽ ảnh
hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp trong các ngành, lĩnh
vực phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn trung và dài hạn như Xây dựng và Bất động sản.
Tăng
tỷ lệ vốn ngắn hạn được mua, đầu tư Trái phiếu Chính phủ (TPCP) của chi nhánh
ngân hàng nước ngoài là biện pháp giúp tăng cầu đối với
TPCP, giúp phát hành TPCP thuận lợi hơn trong bối cảnh nhu cầu phát hành TPCP lớn,
tín dụng tăng trưởng cao.
Tăng
tỷ lệ LDR của các ngân hàng thương mại cố phần nhà nước nắm tỷ lệ sở hữu trên
50%
nhằm tránh tạo ra cú sốc lớn trên thị trường tín dụng, đồng thời đây cũng là ưu
đãi dành cho các ngân hàng đã tham gia vào quá trình tái cơ cấu ngân hàng trong
thời gian qua.
Tăng
hệ số rủi ro đối với cho vay Bất động sản (BĐS)
cùng với hạ tỷ lệ vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn sẽ có ảnh hưởng nhất
định đối với thị trường Bất động sản và các doanh nghiệp trong ngành. Tuy
nhiên, nếu tỷ suất lợi nhuận trên thị trường BĐS vẫn hấp dẫn thì dòng vốn đầu
tư toàn xã hội vào thị trường sẽ ít bị ảnh hưởng, qua đó tác động tiêu cực đối
với thị trường BĐS sẽ được giảm bớt.
I.
Lời
mở đầu
Ngân hàng nhà nước (NHNN) vừa mới ban
hành bản dự thảo sửa đổi thông tư số 36/2014/TT-NHNN với nhiều nội dung thay đổi
quan trọng, có tác động lớn tới hoạt động của hệ thống ngân hàng nói riêng và
toàn nền kinh tế. Với mục đích cung cấp cho Ban Giám Đốc những thông tin về bản
dự thảo sửa đổi này và đưa ra những phân tích, đánh giá tác động đối với nền
kinh tế và Thị trường Chứng khoán Việt Nam. Khối phân tích Công ty chứng khoán
VNDIRECT xin gửi tới nhà đầu tư báo cáo đánh giá tác động của dự thảo sửa đổi
thông tư 36. Các thay đổi quan trọng của bản dự thảo sửa đổi thông tư 36 bao gồm:
1. Giảm
tỷ lệ vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn
Mục tiêu quan trọng nhất khi hạ tỷ lệ vốn
ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn là giảm
thiểu rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng, quyết đinh này cũng phù hợp
với định hướng giảm dần sự phụ thuộc của thị trường vốn vào thị trường tiền tệ.
Theo NHNN, tại thời điểm 31/12/2015, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn
của toàn hệ thống là 31% tăng mạnh so với mức 19,42% tại thời điểm cuối tháng
10 năm 2014. Sự tăng trưởng mạnh của tỷ lệ này trong khoảng thời gian ngắn vừa
qua tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Đây có thể
là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi trong dự thảo nêu trên.
Về mặt vĩ mô, quyết định trên phù hợp với
tín hiệu sẽ thắt chặt dần chính sách tiền
tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông qua giảm dần mức tăng trưởng tín dụng
và cung tiền M2. Hạ thấp tỷ lệ vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn sẽ
khiến tăng trưởng tín dụng giảm. Tỷ lệ vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn
tại thời điểm cuối năm 2015 của tất cả các nhóm TCTD được cho rằng vẫn thấp hơn
mức cho phép trong thông tư 36 (cụ thể: NHTM nhà nước: 33,36%, NHTM cổ phần:
36,9%). Do đó, quy định trên được cho rằng là một thông điệp chính sách mang
tính cảnh báo của NHNN. Thông qua dự thảo này, NHNN muốn phát ra tín hiệu đối với
các ngân hàng thương mại để các định chế tài chính này dần điều chỉnh chính
sách tín dụng, theo hướng tránh để tỷ lệ này tăng quá nhanh làm tăng rủi ro cho
hệ thống.
Quyết định hạ thấp tỷ lệ vốn ngắn hạn được
cho vay trung và dài hạn (cùng với tăng hệ số rủi ro của cho vay kinh doanh Bất
động sản từ 150% lên 250%) sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến các ngành phụ thuộc vào vốn trung và dài hạn như Xây dựng, kinh
doanh Bất động sản. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với nhận định luồng vốn
đầu tư toàn xã hội vào thị trường Bất động sản sẽ giảm. Nếu tỷ suất lợi nhuận
trên thị trường Bất động sản vẫn hấp dẫn thì dòng vốn đổ vào thị trường này được
cho rằng vẫn sẽ tiếp tục tăng lên bất kể việc đưa ra quy định hành chính để kiểm
soát tín dụng.
Mặc dù Dự thảo sửa đổi thông tư 36 (TT
36) đã giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn đối với tất cả các
loại hình Tổ chức tín dụng (TCTD). Theo đó, tỷ lệ vốn ngắn hạn được cho vay
trung và dài hạn đối với các ngân hàng thương mại là 40%, mức giảm tương đối mạnh
so với tỷ lệ được quy định trong TT 36 là 60%. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn cao hơn
mức 30% được áp dụng trước khi thông tư 36 có hiệu lực (Thông tư 15 năm 2009
quy định tỷ lệ này là 30%). Điều này hàm ý, trong tương lai rất có thể tỷ lệ vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài
hạn sẽ tiếp tục được hạ thấp hơn nữa.
Tỷ
lệ vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn
|
||
Loại
Tổ chức tín dụng
|
Thông
tư 36
|
Dự
thảo sửa đổi TT 36
|
·
Ngân hàng thương mại
|
60%
|
40%
|
·
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
|
60%
|
40%
|
·
Tô chức tín dụng phi ngân hàng
|
200%
|
80%
|
·
Ngân hàng hợp tác xã
|
60%
|
40%
|
2. Tăng
tỷ lệ được mua, đầu tư Trái phiếu Chính phủ của chi ngân ngân hàng nước ngoài
so với nguồn vốn ngắn hạn
Điều khoản này chủ yếu hướng tới mục
tiêu tạo thêm cầu đối với Trái phiếu Chính phủ. Động thái sửa đổi này là khá hợp
lý trong bối cảnh Chính phủ tăng nguồn vốn huy động dài hạn thông qua kênh phát
hành trái phiếu Chính phủ.
Tỷ
lệ tối đa được mua, đầu
tư TPCP so với nguồn vốn ngắn hạn
|
||
Loại
Tổ chức tín dụng
|
Thông
tư 36
|
Dự
thảo sửa đổi TT 36
|
·
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
|
15%
|
35%
|
3. Tăng
tỷ lệ LDR (Dư nợ cho vay/ Tổng tiền gửi) đối với các Ngân hàng thương mại nhà
nước
Quy
định trên tạo ra ưu đãi chính sách cho một số ngân hàng mà nhà nước nắm tỷ lệ sở
hữu chi phối đã tham gia vào quá trình tái cơ cấu ngân hàng trong thời gian vừa
qua.
Theo đó, các ngân hàng lớn mà nhà nước chiếm tỷ lệ sở hữu cao, đã tham gia vào
quá trình M&A, hỗ trợ các ngân hàng yếu kém (như VietinBank, BIDV,
VietcomBank) sẽ là các ngân hàng được hưởng lợi nhiều nh ấ t.
Quyết định trên cũng nhằm tránh tạo ra
cú sốc lớn trên thị trường tín dụng nếu các ngân hàng tuân thủ nghiêm ngặt theo
Thông tư 36. Nhận thấy, tại thời điểm 31/12/2015, tỷ lệ LDR của nhóm các ngân
hàng thương mại nhà nước và Ngân hàng thương mại cổ phần do nhà nước sở hữu
trên 50% vốn điều lệ đã đạt 93,65% cao hơn khá nhiều mức quy định theo Thông tư
36 là 80%. Việc giảm tỷ lệ LDR về mức quy định sẽ buộc các ngân hàng này phải
giảm tín dụng, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, hoạt
động tín dụng của các ngân hàng và tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Do đó, cần
phải giãn lộ trình tuân thủ theo Thông tư 36.
Đặt trong mối quan hệ với định hướng điều
hành Chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt dần trong thời gian tới của NHNN. Nhận
thấy có sự mâu thuẫn. Về bản chất, tăng tỷ lệ LDR là một biểu hiện của nới lỏng
tín dụng, không phù hợp với định hướng dần thắt chặt chính sách tiền tệ. Bên cạnh
đó, quy định trên còn tạo ra sự phân biệt đối xử trên thị trường tiền tệ. Với quan điểm cho rằng đây chỉ là biện pháp
quá độ, mang tính chất tạm thời của NHNN,
Tỷ
lệ LDR trên được cho rằng cũng sẽ sớm được hạ thấp về mức như trong Thông tư
36.
Tỷ lệ LDR theo thông tư 36 và dự thảo sửa đổi
Thông
tư 36
|
Dự
thảo sửa đổi thông tư 36
|
||
Ngân hàng thương mại nhà nước
|
90%
|
Ngân hàng thương mại nhà nước
|
90%
|
Ngân hàng thương mại cô phân, ngân
hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài
|
80%
|
Ngân hàng thương mại cô phân do Nhà nước
sở hữu trên 50% vốn điều lệ
|
90%
|
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
|
90%
|
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
|
90%
|
Ngân hàng hợp tác xã
|
80%
|
Ngân hàng hợp tác xã
|
80%
|
|
Ngân hàng thương mại (trừ Ngân hàng
thương mại nhà nước và Ngân hàng thương mại cô phân do Nhà nước sở hữu trên
50% vốn điều lệ)
|
80%
|
Nguồn:
SBV
|
4. Tăng
hệ số rủi ro “Các khoản phải đòi kinh doanh Bất Động Sản”
Tăng hệ số rủi ro đồng nghĩa với việc
yêu cầu các ngân hàng phải tăng trích lập dự phòng, ảnh hưởng tới tính toán các
chỉ tiêu an toàn của ngân hàng (như Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu - CAR).
Quyết
định trên chủ yếu nhằm mục tiêu định hướng điều tiết dòng chảy tín dụng,
nhằm hạn chế tín dụng tập trung quá nhiều vào lĩnh vực rủi ro cao như kinh
doanh Bất động sản. Theo công bố của NHNN, dư nợ bất động sản đến 30/11/2015 là
374.783 tỉ đồng, tương ứng 16,6 tỉ đô la Mỹ, tăng rất mạnh (19,91%) so với thời
điểm 31/12/2014.
Ngoài ra, bản dự thảo sửa đổi cũng làm
rõ thêm một số nội dung, thuật ngữ cho thống nhất với các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành, tạo thuận lợi cho việc tính toán các chỉ số an toàn của từng
nhóm đối tượng tổ chức tín dụng.
Hệ số rủi ro cho vay
BĐS
|
||
Hệ số rủi ro
|
Thông
tư 36
|
Dự
thảo sửa đổi TT 36
|
Các khoản phải đòi
kinh doanh BĐS
|
150%
|
250%
|
II.
Đánh
giá tác động đối với thị trường chứng khoán
Việc ban hành dự thảo sửa đổi thông tư
36 tiếp tục cho thấy quan điểm kiên định của cơ quan quản lý nhà nước trong việc
dần giảm bớt sự phụ thuộc của thị trường vốn (Thị trường cổ phiếu, Thị trường
Trái phiếu) vào thị trường tiền tệ (Hệ thống ngân hàng). Trong dài hạn điều này
tạo điều kiện cho thị trường vốn phát triển bền vững, giảm bớt gánh nặng cho hệ
thống ngân hàng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, qua đó giảm thiểu rủi
ro thanh khoản cho hệ thống ngân hàng khi chủ yếu huy động kỳ hạn ngắn trong
khi cho vay và đầu tư kỳ hạn dài. Điều
này có nghĩa là, dòng vốn từ hệ thống ngân hàng đổ vào TTCK sẽ bị kiểm soát chặt
chẽ hơn.
Trong ngắn hạn, dự thảo sửa đổi Thông tư
36 sẽ có tác động trực tiếp đối với một số nhóm ngành như sau:
Ngành
Ngân hàng: Như phần trên đã phân tích, nhóm các ngân hàng nhà
nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ gồm VCB,
CTG, BID sẽ là nhóm được hưởng lợi lớn
nhất từ quyết định này. Không chỉ với dự thảo thông tư 36, nhận thấy nhiều
động thái chính sách gần đây của NHNN theo hướng sẽ tạo ưu đãi cho các ngân
hàng này (như quy định mới về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, trích lập dự phòng rủi ro
trái phiếu đặc biệt của VAMC...) với mục tiêu xây dựng các ngân hàng trên thành
ngân hàng lớn, tầm cỡ khu vực. Quy mô vốn, tài sản và lợi nhuận của các ngân
hàng trên trong thời gian tới được đánh giá sẽ tăng trưởng vượt bậc so với các
ngân hàng còn lại.
Ngành
xây dựng và Bất động sản: Nhóm ngành Xây dựng và Bất động sản
chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng trong ngắn hạn, ít nhất là ở khía cạnh tâm lý. Hạ tỷ
lệ vốn ngắn hạn được cho vay Trung và Dài hạn cùng với hệ số rủi ro đối với các
khoản cho vay BĐS sẽ khiến cho nguồn vốn trung và dài hạn từ hệ thống ngân hàng
giảm, đồng nghĩa với lãi suất trung và dài hạn sẽ tăng lên, ảnh hưởng tới chi
phí vốn của các doanh nghiệp trong 2 nhóm ngành trên (đây là nhóm ngành mà nguồn
vốn phụ thuộc vào nguồn vốn trung và dài hạn). Tuy nhiên, nhu cầu thị trường
BĐS phục hồi, tỷ suất lợi nhuận từ kinh doanh BĐS vẫn hấp dẫn, dòng vốn đầu tư
vào thị trường sẽ tiếp tục gia tăng cho dù các biện pháp quản lý của cơ quan
nhà nước không thuận lợi.
Nhận định: Về mặt tâm lý, trong ngắn hạn,
các cổ phiếu trong ngành Xây dựng va Bất động sản được cho rằng sẽ đối mặt với
nhiều tin tức không thuận lợi từ dự thảo sửa đổi thông tư 36. Ngược lại, các cổ
phiếu ngân hàng lớn đã đề cập ở trên sẽ có nhiều tin tức thuận lợi hỗ trợ
0 nhận xét :
Đăng nhận xét